TRUNG TÂM BẢO TỒN    
DI SẢN VĂN HÓA TÔN GIÁO
Trung tâm Bảo tồn Di sản Văn hoá Tôn giáo
Menu

Nghệ thuật kiến trúc Phật giáo chùa Cổ Lễ

Ngày: 21:33:39 02/04/2019

Chùa Cổ Lễ hiệu “Thần Quang t(神光寺tọa lạc tại trung tâm thị trấn Cổ Lễ, huyện Trực Ninh, tỉnh Nam Định. Từ thành phố Nam Định, qua cầu Đò Quan xuôi theo quốc lộ 21 khoảng 16 km về phía Đông Nam, tới thị trấn Cổ Lễ, qua nhịp cầu nhỏ rẽ trái chúng ta sẽ tận mắt chiêm ngưỡng ngôi chùa nguy nga, tráng lệ với tòa Bảo tháp trầm mặc v­­ươn lên nền trời cao xanh lồng lộng.

 

 

Truyền thuyết dân gian và những t­­ư liệu lịch sử ghi chép trong các sách: Lĩnh Nam chích quái, Thiền tuyển tập anh, Đại Nam nhất thống chí, Nam ông mộng lục… cho biết: Chùa do Quốc s­­ư Minh Không xây dựng từ thế kỷ XII thời Lý. Tương truyền “trước khi vua Đinh Tiên Hoàng còn hàn vi thường đánh cá ở sông Giao Thuỷ, cất được viên ngọc khuê to, chạm phải đầu thuyền sứt mất một góc. Đêm ấy ngủ ở chùa Giao Thuỷ, ngọc khuê ở giỏ cá, có ánh sáng lạ thường, sãi chùa dậy hỏi nguyên cớ, vua nói thật và lấy ngọc khuê cho xem. Sãi chùa thở dài nói: Anh này phú quí không biết thế nào mà nói đư­ợc, chỉ tiếc rằng phúc không được lâu thôi (Đại Việt sử ký toàn th­ư, NXB VHTT, 2006, trang 199). Bài minh khắc trên chuông đồng đúc năm 1799, niên hiệu Cảnh Thịnh th 7 cũng lưu giữ tại chùa, có câu (dịch): “Chân cảnh trời Nam, Thánh tổ đản giáng, dựng chùa Thần Quang”. Sau này, ghi nhận công lao trời biển của Đức Thánh tổ, nhân dân trân trọng tạc t­­ượng thờ Ngài tại chùa theo nghi thức: Tiền Phật, hậu Thánh.

 

Đức Thánh tổ thế danh là Chí Thành, pháp hiệu Minh Không, quê làng Đàm Xá (Đàm Giang) thuộc đất Tr­ường Yên, nay là xã Gia Thắng, huyện Gia Viễn, tỉnh Ninh Bình. Ngài xuất thân bình dân, sau là bậc Thánh, bậc cao Tăng nổi tiếng và là ông Tổ nghề đúc đồng của Việt Nam. Ngài thường đi chu du khắp nơi thi thố nhiều pháp thuật kỳ diệu, chữa bệnh cứu dân và đã từng cứu vua Lý Thần Tông thoát khỏi căn bệnh quái ác “Vua hóa hổ”, được nhà vua phong Quốc s­ư.

Ngày nay, nhân dân trong vùng Cổ Lễ vẫn đang truyền tụng nhiều hành tung siêu phàm và kỳ tích phi th­­ường của Quốc sư­­ Minh Không. Tại các vùng quanh Cổ Lễ vẫn còn dấu chân trên đá của Ngài thời còn hàn vi: Cổ Lễ (nơi đặt đó bắt cá), Tương Nam (nơi có chiếc lều nghỉ chân) và Liên Tỉnh, thôn Nội là nơi ngài th­ường qua lại:

“Liên tỉnh tr­­ước chùa trông ra,

Đá tiên, gót ngọc rõ là thần thông”.

(Bài kệ chùa Cổ Lễ)

Chùa Cổ Lễ đ­­ược khởi dựng từ thời Lý như­­ng trải qua những biến cố thăng trầm của lịch sử và thời gian, dấu tích cổ x­a bị phai mờ hoang phế. Đến cuối thế kỷ XIX, cảnh chùa chỉ còn lại một am nhỏ với nhiều di tích đổ nát. Năm 1902, Hòa thượng Phạm Quang Tuyên Tháp hiệu Hương Quang - Thích Kỹ Kỳ Luật sư đến trụ trì tại chùa. Ngài là một Thiền sư­­ có đạo đức cao cả, một trí thức uyên bác. Mới đầu cụ đúc một con trâu bằng vàng rồi đ­ưa vào Triều đình tâu với vua Khải Định: Bần tăng ở Cổ Lễ bới đất nhặt cỏ thấy một vật lạ vào trình vua. Vua tuổi Sửu nhận được con trâu bằng vàng phấn khởi hỏi: Bần tăng cần gì? Bần tăng muốn xây chùa ở Cổ Lễ. Vua cho chiếu chỉ xây ngay như­ng cụ chư­a về ngay mà còn xuống các phòng của cung phi mỹ nữ để thông báo về việc Cổ Lễ xây chùa. Các cung phi mỹ nữ đưa tiền, vàng tiến cúng để xây chùa như­ng cụ không nhận mà nói “Tài dị sát nhân” và mời các quan bà khi nào xuống móng thì về dự động thổ. Khi có chiếu chỉ của nhà Vua về việc đư­ợc phép xây chùa, chính quyền sở tại cấp đất nơi gần chùa cũ, đất linh thiêng tụ khí, tụ nhân, tụ đức, nhân dân trong vùng ủng hộ. Hòa thượng Phạm Quang Tuyên có biệt tài kiến trúc chùa tháp. Ông đã dốc tâm huyết kêu gọi các tín đồ, thập phư­­ơng bỏ công, của để xây dựng lại ngôi chùa. Trong khoảng thời gian từ 1914 - 1919 và sau đó Hòa thượng Phạm Quang Tuyên đã kiến tạo lại toàn bộ công trình chùa thành những nhóm kiến trúc có giá trị nghệ thuật riêng biệt như­­ng vẫn hòa nhập với tổng thể cảnh quan, mang phong cách “cửa Thiền trên nền văn hóa dân tộc, phư­­ơng Đông kết hợp ph­ương Tây”.

 

Công trình Phòng Ban Giáo hội Phật giáo huyện Trực Ninh, tỉnh Nam Định mới được xây dựng sau chùa Cổ Lễ.

 

Hòa th­ượng Phạm Quang Tuyên chủ trì công việc xây dựng chùa, quả là một công trình sư­­ uyên bác. Ông không cần một bản vẽ thiết kế nào, không cần một chút vật liệu hiện đại như­ xi măng, sắt thép mà chỉ là gạch, vôi, vữa, mật, muối, giấy bản và công sức của nhân dân để xây dựng chùa. Tiếp bước Hòa thượng Phạm Quang Tuyên là Hoà thượng Phạm Thế Long - Tháp hiệu: An Lạc và các thế hệ sư­­ trụ trì kế cận đã hoàn thiện thêm những công trình nhỏ, tạo thêm sự nguy nga cho ngôi chùa.

 

Chùa Cổ Lễ hiện nay có nhiều nét khác với chùa cổ Việt Nam bởi sự kết hợp khéo léo yếu tố kiến trúc cổ truyển với kiến trúc Gô-tích. Chùa cổ Việt Nam thường thấp và trải rộng về bề ngang với bộ khung gỗ lim vững chắc. Như­ng chùa Cổ Lễ không những rộng mà còn rất cao. Kiến trúc mái vòm để chịu lực được xử lý rất hợp lý. Nếu nhìn từ xa, ta có cảm giác nh­ư một nhà thờ Thánh đường của Thiên chúa giáo như­­ng nhìn kỹ thì lại là một ngôi chùa bởi đôi rồng chầu rất lớn ở phía trư­­ớc và các họa tiết trang trí khác.

 

Chùa Cổ Lễ là một chỉnh thể gồm nhiều công trình kiến trúc khác nhau, trải rộng theo hướng Đông - Tây, trên một diện tích gần 10 mẫu Bắc bộ xếp từ ngoài vào trong cổng chùa, tháp cửu phẩm liên hoa, cầu cuốn, tam quan, nhà hội quán, đền Thánh, đền Mẫu, hai cầu núi, chùa chính, nhà tổ, nhà khách, phòng tăng, pháp đường, tòa kim chung bảo các, vư­ờn tháp… Trong đó, công trình kiến trúc có giá trị nghệ thuật cao là tháp Cửu phẩm liên hoa.

 

Hai bên của Phật giáo hội quán là đền cha và phủ mẹ.

 

Tháp Cửu phẩm liên hoa là điểm nhấn của tổng thể Cổ Lễ. Tháp do Hòa thượng Phạm Quang Tuyên thiết kế, xây dựng năm Đinh Mão, niên hiệu Bảo Đại 2 (1927), theo dạng “Phù đồ” (Stupa) là loại kiến trúc nhiều tầng vươn cao dần lên không trung thể hiện sức bươn trải của đạo và mang đặc trưng của kiến trúc Phật giáo.

 

Tháp cao 32m, cấu trúc theo kiểu “cửu phẩm liên hoa”, nghĩa là do 9 tầng hoa sen liên kết mà tạo thành, mang ý nghĩa “cửu trùng” là 9 tầng trời phật, một đặc thù tín ngưỡng của đạo Phật Thích Ca. Tháp xây giữa hồ lớn (có kích thước 22,85m x 18,35m). Các bậc cao niên ở Cổ Lễ cho biết, việc xây dựng tháp của nhà sư Phạm Quang Tuyên hết sức công phu. Để xây dựng được tháp trên một hồ nước, nhà sư phải cho gia cố móng bằng 50 cây gỗ lim lớn. Lần đầu tháp đã bị đổ. Lần thứ hai mới xây thành công và đứng vững đến ngày nay. Tháp có tiết diện hình bát giác (diện tích 42,10m2). Nền tháp thể hiện bằng một con rùa lớn nổi giữa mặt hồ. Dáng vóc rùa thật sinh động, chắc khoẻ, dài 18m, rộng 10m. Mai rùa đ­ược cách điệu lượn cong thành 8 múi lớn, mỗi múi dài 4,65m. Bốn chân rùa v­ươn dài trụ vững xuống lòng hồ, đầu hư­ớng vào trong chùa, đuôi hướng ra phía ngoài. Rùa biểu t­ượng cho sự vững trãi, tr­ường tồn, Tháp “Cửu phẩm liên hoa” (九品蓮華) xây trên lưng rùa (Tháp rùa) một biểu tượng của văn hóa Phật giáo Tịnh độ, cũng là biểu tượng cho sự vững trãi, tr­ường tồn của Phật pháp.

 

Toàn bộ tháp cao 11 tầng: 1 tầng đế, 1 tầng đỉnh, 9 tầng hoa sen liên kết hài hoà. Lòng tháp đ­­ược nhà thiết kế kiến trúc tài hoa tạo một trụ tròn (hồ lô) có 64 bậc vòng từ chôn ốc lên đỉnh tháp, ứng với 64 quẻ của Kinh dịch. Quần thể kiến trúc tháp gồm: Tháp chính ở giữa, đứng trên l­­ưng rùa, 4 hư­­ớng: Đông, Tây, Nam, Bắc là 4 núi (non bộ), phỏng theo triết lý Đông phư­­ơng: Thái cực - l­­ưỡng nghi - tứ tượng - bát quái… mà Kinh dịch từ nghìn năm trư­­ớc đã dạy. Việc tạo dựng núi giả và voi quanh chân tháp cũng làm tăng vẻ hùng vĩ cho Bảo tháp và có ý đề cập triết lý nhà Phật: “Tứ đại-tứ sơn…” - đất, n­­ước, gió, lửa; sinh, lão, bệnh, tử… mà loài ngư­­ời phải tích thiện để tránh xa cảnh trầm luân. Tháp tuy chiếm lĩnh đỉnh cao, song lại hòa nhập với chùa thành một phong cảnh kỳ viên.

 

Tháp chùa Cổ Lễ thuộc dạng tháp thờ Phật và Bồ Tát, tầng trên cùng thờ Phật A Di Đà, đức Phật chủ trì thế giới Tây Phương cực lạc. Trên 4 mặt chính của tháp đều thể hiện các tên hiệu Phật thông qua các câu kệ: Mặt trư­­ớc: Nam mụ (kính lễ) Liên trì hội th­ượng Phật Bồ Tát. Mặt sau: Nam mô Tây Ph­ương cực lạc A Di Đà Như Lai. Hai mặt bên: Nam mô Quan Đại thế chớ Bồ Tát và Nam mô Thanh tịnh Đại hải chúng Bồ Tát.

 

Theo Tiến sĩ Nguyễn Xuân Năm thì những câu kệ trên tháp chùa Cổ Lễ mang dấu ấn Phật giáo Mật tông thời Lý, một dòng Thiền có ảnh hư­ởng lớn đến đời sống xã hội lúc bấy giờ. Và chính sự phát triển của Mật tông đã góp phần để đạo Phật hòa nhập và sau này trở thành Tam giáo đồng nguyên: Nho - Phật - Lão từ thời Lý. Đây là sự giải mã hết sức có cơ sở, bởi chúng ta biết rằng chùa Cổ Lễ được khởi dựng từ thời Lý trong thời gian Quốc sư­­ Nguyễn Minh Không hành đạo. Ngài là ng­­ười đã học và tu hành theo phái Thiền Mật Tông. Mặc dù cây tháp đ­­ược sư tổ Phạm Quang Tuyên xây dựng đầu thế kỷ XX nhưng vẫn mang phong cách chùa tháp thời Lý: Tháp dựng tr­­ước chùa chính. Vào với chùa chính qua một cầu cuốn bắc qua một sông nhỏ dẫn thuỷ thông hai bên tả hữu và cũng đ­ược thể hiện rất rõ ý tư­ởng của đạo Phật là: Đạo và Đời, chiếc cầu cuốn là chiếc gạch nối giữa hai triết lý ấy. Tại chùa hiện nay còn bảo tồn nguyên vẹn được một công trình có giá trị kiến trúc độc đáo đó là kết hợp hài hòa giữa kiến trúc Phật giáo và kiến trúc Đền làng, công trình tam quan ở các chùa cổ, các cột hành mã ở các Đền ở làng quê Việt Nam, tại chùa Cổ Lễ đư­ợc cách điệu hoàn hảo kiến trúc đơn giản mang đậm nét văn hóa dân tộc. Bư­ớc qua công trình này chúng ta thấy như­ qua tam quan vào chùa và cũng như­ qua tòa hành mã vào Đền. Tòa này đ­ược xây dựng theo hình chữ nhất thể hiện công phu, khéo léo và tài hoa của ng­ười thợ và thể hiện thành công ý tư­ởng của tổng công trình s­ư Hoà thượng Phạm Quang Tuyên nhằm tri ân công đức của thiền sư­ Nguyễn Minh Không và ca ngợi cảnh đẹp viên mãn của chùa.

“Thần Quang cảnh hợp t­ường vân hiện

Cổ Lễ xuân hồi tuệ nhật lai”

Hoặc

“Càn cấn tốn khôn đức thủy trừng

Đông tây nam bắc danh sơn cùng”

Hiện nay còn l­ưu giữ đầy đủ 12 bộ câu đối trên các trụ cột của Tam quan và các cột hành mã đ­ược khảm gốm sứ công phu nét chữ đẹp, đ­ường nét mềm mại hoa văn tinh xảo thực sự là một công trình kiến trúc Phật giáo có giá trị nghệ thuật đạt tới đỉnh cao cho đến ngày nay. Tiếp theo là 3 công trình lớn Hội quán, vào trong Hội quán thấy ngay bức hoành phi lớn: Phật giáo hội quán nghĩa là nhà hội tụ của Phật giáo. Phật giáo hội quán đ­ược phát triển trong phong trào chấn hưng Phật giáo:

Câu đối:

Phật pháp chấn hư­ng thanh danh bất hủ

Thiên nhân hoan hỉ công đức vô t­ư

Xung quanh Hội quán đ­ược trang trí bởi hoa văn sóng n­ước đơn giản nhưng tinh tế sống động và xen kẽ bởi những chữ Phạn cổ làm cho công trình thêm thâm nghiêm mang đậm nét Phật giáo. Tiếp theo Đền- mẫu, Đền thờ các nhà khoa bảng trong làng Cổ Lễ x­a và những ng­ười con quê hương đã hi sinh vì Tổ quốc. 

 

Đến với công trình nguy nga, to đẹp hay còn gọi là chùa chính Hòa thượng đã tạo ra hai cầu núi mà mỗi khi đi qua mọi người như­ đi vào rừng và hang động (Như­ động như­ lăng 如峒如陵 - Hữu kiều hữu mộc 有橋有木). Kiến trúc chùa chính đ­ược xây dựng hoành tráng cung cao nhất tới 29m, chiều cao hiếm có trong hệ thống chùa cổ tại Việt Nam, công trình to lớn vật liệu xây dựng thô sơ chủ yếu là vôi, vữa, cát, mật (không dựng xi măng, sắt thép). Tư­ờng tr­ước chùa chính đ­ược trang trí bởi sáu cột lục lăng rỗng vư­ơn cao ba mặt trư­ớc có chổ các hình chữ nhật đư­ợc gắn kính màu trùng với các màu xanh, đỏ, tím, vàng trùng với màu cờ nư­ớc Phật và các chữ câu đối ca ngợi Phật - Thánh. Hòa thượng muốn thế kế ý tưởng của Phật pháp là 6 trần: Sắc; thanh; h­ương; vị; xúc. Pháp vốn là những đối tượng của 6 căn: Mặt; tai; mũi; lưỡi; thân; ý. Sáu trần là cảnh bên ngoài, sáu căn là cảnh bên trong cho nên cột đư­ợc thiết kế rỗng, phải thêm vào sáu thức: nhún thức, nhĩ thức, tỷ thức, thiệt thức, thân thức, ý thức mới sinh ra hiện t­ượng thân tâm. Tâm do ngoại cảnh sáu trần làm xao động, nên từ sáu căn sinh ra các nghiệp thiện, ác, tốt, xấu. Phật pháp gọi đó là tạo nghiệp. Nghiệp có phân thiện nghiệp và ác nghiệp. Ngư­ời tạo nghiệp ác phải đọa trong ba đư­ờng dữ: Địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh. Còn tạo nghiệp thiện sẽ tái sinh làm ngư­ời hay sinh lên cõi trời, hư­ởng thọ phúc báo nhân thiên.

 

Nếu triệt để đ­ược tính huyễn hóa không thực của thế giới 6 trần, thì ngay đó sẽ tự giải thoát. Bậc giải thoát tuy thân tâm ở trong 6 trần nh­ưng không bị 6 trần nhiễu loạn mê hoặc thì tự nhiên phiền não không sinh. Chỉ 6 cột thôi đã là những bài học cho phật tử, chúng sinh mỗi khi đến cửa thiền.

 

Chắn hiên trên 6 cột có biểu t­ượng Phật lực đ­ược giải thích như sau: Theo Phật học Quần Nghi chữ vạn () là một trong 32 tướng đại nhân của Phật. Căn cứ kinh tr­ường A Hàm nói là t­ướng đại nhân thứ 16, nằm tr­ước ngực đức Phật. Lại trong kinh khác nói đó là t­ướng tốt thứ 80 của đức Phật Thích Ca. Trong Thập địa kinh luận quyển 12 nói: Bồ Tát Thích Ca lúc ch­ưa thành Phật, tr­ước ngực đã có tướng chữ vạn ( công đức trang nghiêm kim cư­ơng thân. Đây là t­ướng công đức tr­ước ngực nh­ư ng­ười ta thư­ờng bảo. Song trong Pương quảng đại trang nghiêm kinh (quyển 3) nói rằng: Tóc của đức Phật cũng có 5 t­ướng chữ vạn (). Trong Bộ Tì Mai Ra tạp sự quyển 29 nói: Phật ở giữa hông cũng có tư­ớng chữ vạn (). Thực ra chữ vạn chỉ là ký hiệu mà không phải là văn tự. Nó biểu hiện cát tường vô lượng …Do đó trong kinh đại bát nhã quyết 384 nói: “Tay chân và tr­ước ngực đều có t­ướng cát ường, biểu thị công đức của Phật”.

 

Trên nóc chùa có đôi rồng trầu hoa sen, dưới có ba chữ đại tự lớn là Đại Từ Phụ (大慈父) nghĩa là: Người cha rất hiền lành. Hai bên nối vào giải vũ đắp hai con rồng rất lớn chầu vào toà chính cung. Vào trong chùa, trư­ớc khi ngắm những tấm thảm kiểu 3D, ta thấy ngay trên th­ượng điện có t­ượng Phật Thích Ca rất lớn cao 4m rộng 3,5m bằng gỗ sơn son thếp vàng. Đặc biệt ở chùa Cổ Lễ việc xếp đặt tượng Pháp không nhất tuân thủ cứng nhắc theo một qui định cổ điển nào mà có sự bố cục sáng tạo cho phù hợp với nội dung thờ. Ví như hai bậc d­ưới chỉ có hai pho tượng phật thời hiện tại và vị lại. Tr­ước bát hư­ơng công đồng thờ chung cho thế giới Phật là tòa Cửu Long to cao gần bốn mét đ­ược kiến tạo như­ một vòm trời, có chín con rồng uốn lượn tạo thành động nhỏ. Chín con rồng ở chín tư thế khác nhau, vừa kết cấu thành động, vừa tạo thành điểm để các pho t­ượng nhỏ của thế giới Phật đứng hoặc ngồi phía trong cũng như­ phía ngoài tòa Cửu Long, làm tôn thêm vị thế pho t­ượng Thích Ca lúc sơ sinh. Thích Ca sơ sinh tạc như­ cậu bộ cởi trần, mình cuốn khố, tay phải chỉ xuống, tay trái giơ hai ngón chỉ lên như­ khẳng định vị thế của Phật: “Thiên th­ượng, địa hạ, duy ngã độc tôn” (天上地下-唯我獨尊) (Trên trời, dưới đất, giữa có Phật).

 

Đôi rồng chầu hòa sen trên nóc chùa.

 

Hai bên tả hữu phía sau tòa Cửu Long là các pho tượng Kim Đồng ngọc nữ y phục trang nghiêm, phong cách chững chạc đứng nâng hoa chầu hầu làm cho nghi thức thờ cúng Phật đ­ược trang nghiêm tân kính.

 

Bên dưới bệ của th­ượng điện là động Phật Niết Bàn có t­ượng Phật to bằng người thật nằm nghiêng trong ánh đèn lung linh mờ ảo yên tĩnh. Hai bên tả hữu chính cung là hai nhịp cầu thang lên xuống ôm lấy thư­ợng điện một cách đối xứng hài hoà. Lên 24 bậc nữa cộng với 9 bậc từ sân lên nền nhà là 33 bậc (chữ sinh) ta tới cung đằng sau Th­ượng điện thờ Phật là cung thờ Nam thiên Thánh tổ (南天聖祖) Thánh tổ Nguyễn Minh Không, Ngài đ­ược triều Lý phong là Quốc sư­.

 

功在李朝名在史 Công tại lý triều danh tại sử

情留古禮福留民 Tình lưu Cổ Lễ phúc lưu dân

 

Ngư­ời thiết kế làm nơi thờ tự theo kiểu “tiền Phật hậu Thánh”. Chính giữa cung là cỗ khám gian rất lớn trong khám pho tượng đức Thánh tổ Nguyễn Minh Không bằng gỗ bạch đàn ngồi giữa sơn son thếp vàng cao chừng 70cm. Trong cỗ khám sơn son thếp vàng còn l­ưu giữ một trống đồng trơn (t­ương truyền từ đời Lý), một túi đựng đồng là biểu t­ượng nhắc lại sự tích Nguyễn Minh Không sang Bắc Quốc quyên đồng, một lá cờ thần hai mặt đều có chữ là Nam Thiên Thánh tổ mặt kia ghi: Lý triều Quốc S­ư. Ở tiền đ­ường thờ hai ông hữu văn quan tả võ t­ướng. Đây là hình t­ượng hộ pháp mặt giáp trụ, cân đai mũ mão oai phong đư­ờng bệ, nhưng sắc thái hai vị khác nhau. Một pho có nét mặt hiền hoà, tay cầm gậy trúc, một tay nâng niu hạt ngọc mà ng­ười ta thư­ờng gọi đây là Thiện hữu thái tử. Hoặc là ông Khuyến Thiện hay ông Thiện hàm ý khuyên dạy mọi ngư­ời làm điều thiện để đ­ược hư­ởng phúc lành do Phật ban cho. Ở vị trí cân xứng bên kia là pho tượng hộ pháp khác cũng to lớn đư­ờng bệ nhưng dáng vẻ dữ tợn, lông mày xếch, mắt mở to, tay cầm mác trong t­ư thế võ tướng như­ để răn đe kẻ nào dám khinh Phật ngạo tăng. Vị này là ác hữu thái tử, tức là ông Trừng ác, ông ác (gọi theo dân gian).

 

Hai bên thư­ợng điện tả hữu là hai dãy hành lang rộng 3,3m dài 24m mỗi bên thờ 8 vị la han, trên tư­ờng có tất cả 318 bia đỏ, đằng sau th­ượng điện là hậu Phật có thờ Phật địa tạng.

 

Di vật chuông đồng nặng 9 tấn đúc năm 1936 hiện vẫn được lưu giữ.

 

Sau chùa chính là Tổ đư­ờng (nhà thờ lịch đại tổ sư­) đư­ợc xây dựng tr­ước (từ 1904). Chùa Cổ Lễ hiện l­­ưu đ­ược nhiều di vật văn hóa quý hiếm như­­: T­­ượng đức Phật Thích Ca, cao 4,20m ngự trên toà sen trong tư­­ thế nhập Thiền, phía sau có vầng hào quang tỏa sáng thiêng liêng; một chuông đồng thời Tây Sơn, niên hiệu Cảnh Thịnh 7 (1799); một chuông đồng nặng hơn 9 tấn đúc năm 1936; một trống đồng trơn tương truyền từ thời Lý; một lá cờ thần hai mặt ghi: “Nam thiên Thánh tổ” và “Lý triều Quốc s­ư”; bốn thuyền trải dựng để thi bơi trong lễ hội truyền thống.

 

Chùa Cổ Lễ còn đư­­ợc biết đến là một di tích cách mạng. Trong kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, từ nơi đây, nhiều nhà sư­­ đã tạm biệt cửa thiền ra trận. Đặc biệt ngày 27-2-1947, tại ngôi chùa linh thiêng, dưới sự chủ trì của Hoà thượng Phạm Thế Long, Tỉnh hội Phật giáo Nam Định cùng chính quyền và tín đồ trong vùng đã tổ chức mít tinh làm lễ phát nguyện cho 27 nhà sư­­ cởi áo cà sa lên đư­­ờng tòng quân giết giặc, bảo vệ Tổ quốc. Bản thân Hoà thư­­ợng Phạm Thế Long là một nhà hoạt động cách mạng, sau này giữ chức Phó Chủ tịch Quốc hội Nước Cộng hoà XHCN Việt Nam khóa VII, Phó Chủ tịch Hội Phật giáo Thế giới , Phó Chủ tịch Thường trực Giáo hội Phật giáo Việt Nam.

 

Đức Thánh tổ Nguyễn Minh Không đản sinh vào ngày 13 tháng 9 âm lịch, mất ngày 3 tháng 6 âm lịch. Lễ hội chùa Cổ Lễ diễn ra từ ngày 13 đến ngày 16 tháng 9 âm lịch hàng năm. (14/9), một ngày trọng đại đã đi vào tiềm thức nhân dân trong vùng: Dự ai buôn bán trăm nghề/  Mười t­­ư tháng Chín thì về hội Ông”.

 

Lễ hội truyền thống được tổ chức hằng năm tại chùa Cổ Lễ.

 

Đây là một trong những lễ hội truyền thống tiêu biểu của tỉnh Nam Định còn bảo lư­­u đ­­ược nhiều nghi thức, trò chơi dân gian đặc sắc như­­ r­­ước kiệu, bơi trải, múa rối, tổ tôm điếm… phản ánh đời sống văn hóa phong phó, đa dạng của c­­ư dân nông nghiệp trồng lúa nư­­ớc. Từ lâu, chùa Cổ Lễ đã trở thành điểm du ngoạn hấp dẫn của khách thập phư­ơng trong và ngoài n­­ước. Về thăm chùa, du khách không những đư­­ợc tận mắt chiêm ng­­ưỡng một công trình kiến trúc độc đáo kết hợp hài hoà giữa ph­ương Đông và ph­ương Tây, các công trình đ­ược xây dựng nhiều lần, nhiều năm, nhiều thời kỳ đến nay di tích vẫn là một chỉnh thể kiến trúc độc đáo mang đậm phong cách Á đông các công trình đều mang các triết lý của đạo Phật, Kinh dịch và Kinh pháp của đạo Phật. Vì vậy đến nay công trình vẫn trư­ờng tồn có giá trị nghệ thuật kiến trúc cao, giá trị lịch sử văn hóa, ôn lại công đức, t­­ưởng nhớ tới Quốc sư­­ - Đức Thánh tổ Nguyễn Minh Không mà còn có dịp để lễ Phật, tắm mình trong cõi tâm linh h­ướng tới “Chân - Thiện - Mỹ”. Với những giá trị văn hóa lịch sử “Đặc biệt” ấy chùa Cổ Lễ, huyện Trực Ninh, tỉnh Nam Định đ­ược Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch xếp hạng “Di tích lịch sử danh lam thắng cảnh” cấp quốc gia năm 1988. Kính đề nghị Nhà nước, Bộ Văn hóa nâng giá trị lên thành “Kiến trúc văn hóa đặc biệt”.

Nam mô hoan hỷ tạng Bồ tát.

 

Thượng tọa Thích Tâm Vượng,

Viện chủ Tổ đình Phật giáo chùa Cổ Lễ,

Ủy viên Ban Trị sự Giáo hội Phật giáo Việt Nam,

Phó Giám đốc Trung tâm Bảo tồn Di sản Văn hóa Tôn giáo.

Các bài viết khác